Không như  những nhà thơ thuộc phong trào thơ mới chịu ảnh hưởng của phong cách thơ lãng mạn Pháp, thơ của Nguyễn Bính lại chịu chi phối sâu sắc của phong cách thơ ca dân gian Việt Nam. Đây chính là điều tạo nên nét khác biệt của thơ Nguyễn Bính. Tiêu biểu cho hồn thơ dân tộc của ông trong giai đoạn này có thể lấy bài thơ “Tương tư” làm ví dụ điển hình. Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ nhung, tâm trạng bồi hồi, da diết của người thanh niên khi yêu:

“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.

Nhà thơ xưng “tôi” – không quá trang trọng và cũng không quá trìu mến – tạo sự hài hòa, gần gũi mà vẫn có chừng mực.  Câu thơ mang đậm tính dân tộc: Thôn Đoài – thôn Đông gợi cho người đọc thấy được một tình yêu vô cùng gần gũi, chân thành. Gần gũi ngay từ những tên địa danh cho đến âm hưởng của vần thơ “Một người chín nhớ mười mong một người”

Phân tích bài thơ "Tương tư" của Nguyễn Bính.


“Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này”

Mối tương tư của “tôi” kéo dài theo thời gian:

“Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”

“Tôi” lại hờn dỗi buông lời:

“Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi…”

Đó là bởi “tôi” đã quá mong mỏi đọi chờ:

Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!”

Thế mà “nàng” lại quá đỗi vô tâm, khiến cho nỗi niềm mong mỏi của “tôi” trở nên vô vọng:

“Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”

“Bến” với “đò”, “Hoa khuê các” với “bướm giang hồ” – đó là lỗi nói ước lệ tượng trưng vốn thường xuất hiện trong ca dao Việt Nam. Nó thể hiện khát khao mãnh liệt của “tôi” với “nàng” nhưng đồng thời cũng là nỗi buồn vì tình yêu chưa đâm hoa kết trái. Bởi vậy, nhà thơ thay đổi cách xưng hô: từ “tôi” sang  “anh”, từ “nàng” sang “em” để ngỏ lời yêu:

“Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”

Không còn những trách móc vu vơ, thay vào đó là những mong ước chân thật, mộc mạc. Một nhà có giầu, một nhà có cau, nếu ghép lại thì thật vừa khéo. Lời ngỏ thể hiện mong ước, chờ đợi về hạnh phúc lứa đôi son sắt, bền lâu.

Viết theo thể thơ lục bát với cách dùng từ mang đậm nét ca dao dân gian, Nguyễn Bính đã đem nét đẹp thôn quê thổi hồn vào Thơ mới vốn được xem như là một phong trào xuất hiện từ Tây phương. Nét mộc mạc, duyên dáng trong “Tương tư” nói riêng và thơ Nguyễn Bính nói chung đã tạo nên những ấn tượng nhẹ nhàng mà sâu sắc trong lòng độc giả yêu thơ văn.

Với việc sử dụng thể thơ lục bát cùng với những hình ảnh mang đậm nét ca dao dân gian, Nguyễn Bính đã đưa một làn gió mới vào phong trào thơ mới của Việt Nam. Những hình ảnh thân thương, gần gũi đi vào thơ ông một cách tự nhiên, khiến cho tình yêu lứa đôi trong thơ trở nên ấm áp, chân thành hơn bao giờ hết.  Chính điều đó làm cho thơ của Nguyễn Bính đi vào lòng độc giả một cách nhẹ nhàng mà lại sâu sắc.

Đăng nhận xét

 
Top