Đề bài: Phân
tích tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” của
Nguyễn Trãi.
“Bình
Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được
đánh giá là bản thiên cổ hùng văn, bản “tuyên ngôn độc lập thứ hai” của dân tộc.
Với giọng văn hùng hồn mà đầy thuyết phục, bài cáo cho người đọc cảm nhận sâu sắc
được tinh thần bất khuất, kiên cường của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến
chống giặc Minh xâm lược. Đồng thời khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm của
nước Đại Việt.
“Bình Ngô đại cáo” được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết vào
khoảng đầu năm 1428, khi cuộc kháng chiến chống Minh xâm lược của nghĩa quân
Lam Sơn đã thắng lợi, quân Minh buộc phải kí hòa ước, rút quân về nước, nước ta
bảo toàn được nền độc lập tự chủ, hòa bình. Nguyễn Trãi -62 là một anh hùng dân tộc, là người toàn tài hiếm có
trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Ông có công lớn trong cuộc
kháng chiến chống quân Minh đồng thời cũng là nhà thơ trữ tình sâu sắc, nhà văn
chính luận kiệt xuất, là cây đại thụ đầu tiên của văn học trung Đại Việt Nam.
Tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” được Nguyễn Trãi viết theo thể cáo, một thể
văn có nguồn gốc từ Trung Hoa, viết bằng chữ Hán, thuộc thể văn hùng biện chính
luận, có nội dung thông báo một chính sách, một sự kiện trọng đại liên quan đến
quốc gia dân tộc, công báo trước toàn dân. Nhan đề tác phẩm có Ý nghĩa là bài
cáo trọng đại tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô-một tên gọi hàm ý khinh bỉ căm
thù giặc Minh xâm lược. Bài cáo có bố cục chặt chẽ mạch lạc, viết theo lối biền
ngẫu, vận dụng thể tứ lục, sử dụng hệ thống hình tượng sinh động, gợi cảm.
Bài cáo gồm
bốn đoạn. Đoạn đầu nêu cao luận đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến, đó là tư
tưởng nhân nghĩa kết hợp với độc lập dân tộc: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên
dân-Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” và “Như nước Đại Việt ta từ trước-Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”.
Đoạn thứ hai
của bài cáo đã vạch trần, tố cáo tội ác dã man của giặc Minh xâm lược. Đoạn văn
là bản cáo trạng đanh thép, tố cáo giặc Minh ở các điểm: âm mưu cướp nước, chủ
trương cai trị phản nhân đạo, hành động tàn sát tàn bạo. Đồng thời, đoạn văn
cũng nêu bật nỗi thống khổ, khốn cùng của nhân dân, dân tộc ta dưới ách thống
trị của kẻ thù: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn-Vùi con đỏ xuống dưới hầm
tai vạ”; “Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kế-Gây binh kết oán, trải hai mươi
năm”. Đoạn văn ngùn ngụt Ý chí căm thù giặc và thống thiết nỗi thương dân lầm
than. Đoạn văn thứ ba là đoạn dài nhất của bài cáo, có Ý nghĩa như bản anh hùng
ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đoạn văn đã tổng kết lại quá trình khởi nghĩa.
Ban đầu cuộc khởi nghĩa gặp nhiều khó khăn, lương thảo, quân sĩ, người tài đều
thiếu, nghĩa quân ở vào thế yếu “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần-Khi Khôi Huyện
quân không một đội”, “Tuấn kiệt như sao buổi sớm-Nhân tài như lá mùa thu”, “lấy
yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều”…Nhưng nghĩa quân có người lãnh tụ Lê Lợi
sáng suốt, bền chí, yêu nước “Ngẫm thù lớn há đội trời chung-Căm giặc nước thề
không cùng sống”, biết đoàn kết lòng dân “Sĩ tốt một lòng phụ tử-Hòa nước sông
chén rượu ngọt ngào”, dùng chiến thuật phù hợp nên nghĩa quân Lam Sơn ngày một
trưởng thành “Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh”và ngày càng chiến thắng
giòn giã, vang dội “Đánh một trận sạch không kình ngạc-Đánh hai trận tan tác
chim muông”, giặc Minh thì liên tiếp thất bại, thất bại sau lại càng thảm hại
hơn thất bại trước, mỗi tên tướng giặc bại trận lại có vết nhục nhã riêng: kẻ
treo cổ tự vẫn, kẻ quỳ gối dâng tờ tạ tội, kẻ bị bêu đầu…Đoạn văn thứ ba của
bài cáo cũng ca ngợi lòng nhân đạo, chuộng hòa bình của nhân dân, dân tộc ta,
tha sống cho quân giặc đã đầu hàng, lại cấp cho chúng phương tiện, lương thảo về
nước. Đoạn cuối của bài cáo đã tuyên bố trịnh trọng về việc kết thúc chiến
tranh, khẳng định nền độc lập, hòa bình vững bền của đất nước, thể hiện niềm
tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Bài cáo có sự
kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa yếu tố chính luận sắc bén với yếu tố văn chương
truyền cảm, kết hợp giữa lí luận chặt chẽ và hình tượng nghệ thuật sinh động. Cảm
hứng nổi bật xuyên suốt tác phẩm là cảm hứng anh hùng ca hào hùng sôi nổi, mãnh
liệt. Giọng điệu của bài cáo rất đa dạng, khi tự hào về truyền thống vănhóa,
anh hùng lâu đời của dân tộc, khi thì căm phẫn sục sôi trước tội ác của kẻ thù,
khi thống thiết xót thương trước nỗi đau lầm than của nhân dân, khi lo lắng trước
những khó khăn của cuộc kháng chiến, khi hào hùng ngợi ca chiến thắng, khi trịnh
trọng tuyên bố độc lập của dân tộc, đất nước.
Không chỉ
mang trong mình ý nghĩa lịch sử lớn lao, Bình
Ngô đại cáo còn chứa đựng giá trị văn học không thể phủ nhận. Thông qua bài
cáo, thế hệ chúng ta thêm hiểu và cảm nhận được truyền thống yêu nước, ý chí tự
lực, tự cường, kiên cường, bất khuất của thế hệ cha ông đi trước. Cho đến tận
bây giờ, mỗi người dân đất Việt vẫn không khỏi cảm thấy tự hào mỗi khi bắt gặp
giọng điệu hào sảng của những câu thơ hùng hồn:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền
văn hiến đã lâu
Núi sông bờ
cõi đã chia,
Phong tục Bắc
Nam cũng khác.
Từ Triệu,
Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường,
Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương.
Tuy mạnh yếu
từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt
đời nào cũng có…”
Đăng nhận xét