Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
(Vườn hoa bên Tây Hồ đã thành bãi
hoang rồi
Trước song một mình nhớ tới người xưa
qua một tờ giấy viết).
Câu thơ mở đầu
như một tiếng thở dài não ruột. Không gian Tây Hồ vẫn còn đây, khuôn viên của một
vườn hoa với những bông hoa thắm đẹp giờ đã không còn nữa. Vườn hoa đã thành gò
hoang, gò hoang vắng đã thay thế cho vườn hoa. Cái “hữu” đã thành cái không,
cái “đẹp” đã bị thay bởi cái “tàn tạ” hủy diệt. Từ “tận” mang ý nghĩa phủ định
tuyệt đối; đã thay đối hết không còn một dấu vết gì nữa. Chứng thực một không
gian đẹp là khoảng đất bên Tây Hồ, để đối chứng quá khứ vàng son với hiện tại hủy
diệt, Nguyễn Du đã nhìn thấy cuộc
thương hải tang điền trong chớp mắt “Trải qua một cuộc bể dâu”, “Thế gian biến
cải vũng nên đồi”,một con người được ghi ở một tờ giấy viết thật mong manh. Tờ
giấy viết đây chính là bài “kí” có khoảng 2300 chữ ghi lại chuyện Tiểu Thanh của
người đời sau.
Cái nhìn trầm
ngâm của Nguyễn Du về cuộc bể dâu của
sự vật và cái lẽ nhân sinh của kiếp người sao mà cô đơn đến thế. Cái đẹp bị hủy
hoại cùng triệt, dòng thời gian cứ chảy vô tình. Cái lẻ loi và đơn độc của Nguyền
Du không chỉ hiện hình ở cái cảnh buổi chiều tàn bên song cửa sổ, ngồi dọc chuyện
buồn mà còn thể hiện ở hai chữ “độc” và “nhất” đó.
Hai câu thực:
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
(Son phấn có thần sắc chắc phải xót
xa vì những việc sau khi chết).
Văn chương không có số mệnh mà cũng bị
đốt dở
Trong truyện
Tiểu Thanh kí tác giả kể, trước khi chết, Tiểu Thanh thuê họa sĩ vẽ chân dung
mình. Bức hình thứ nhất nàng chê có hình tự mà không có thần, bức thứ hai có thần
nhưng phong thái khô cứng, gò bó. Sang bức thứ ba nàng khen vừa có hình, có thần,
lại dịu dàng yểu điệu. Tiểu Thanh treo bức hình mình lên tế rồi khóc đến chết.
Người chồng nghe tin chạy đến nhìn sắc mặt vợ và bức tranh thấy như người còn sống
thương tiếc và khóc lóc. Lúc vợ cả cái nạp tranh và thơ, người chồng chỉ nạp
thơ và bức tranh thứ nhất. Do đó, Nguyễn
Du đã viết rất thực tế để tả cái oan trong đời Tiểu Thanh. Sắc là thế nhưng
chết rồi mới được chồng đoái thương, văn chương là thế mà cũng bị đốt, may còn
sót lại mấy bài.
Ý nghĩa của
hai câu thực còn chìm ấn bên trong tính chất luận. Bề ngoài thì Nguyễn Du dã nắm bắt hai chi tiết có thần
nhất để làm nổi bật cốt truyện, nhưng bên trong thì nói lại một quan điểm. Dù
có bị những lực lượng hắc ám phũ phàng tận diệt thì nhan sắc của giai nhân, tài
hoa của con người không dễ gì bị tiêu diệt. Qui luật vô hình vẫn dành cho nó những
cơ may để tồn tại. Nó không chết, nó vẫn cùng cây đời mãi mãi xanh tươi. Tuy
nhiên, để tồn tại sắc tài vẫn phải vật vã và trầm luân đau khổ lắm!
Nếu như bốn
câu trên có phần “hướng ngoại”, quan tâm tới câu chuyện Tiểu Thanh thì bốn câu
sau tác giả suy ngẫm về mình. Cảm hứng bốn câu trên nằm trong cảm hứng chung của
Nguyễn Du về sự thương xót và ngưỡng
mộ những tài tử giai nhân: “Sắc tài sao mà chịu kiếp truân chuyên”. Bốn câu sau
“hướng nội”. “Trông người lại ngẫm đến ta”, cảm xúc chủ đạo ỡ đây là sự cô độc
tuyệt đối của Nguyễn Tiên Điền!
Hai câu luận:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư.
(Những việc tiếc hận ngày xưa không hỏi
trời
Ta tự ở vào cái oan kì lạ của phong vận)
Ở đây ta nên
hiểu “hận sự” đó là những việc không hài lòng một cách sâu sắc có thể để hối tiếc
mãi. Nó không phải là “thù hận” mà là “tiếc hận”. Vì thế nghĩa hàm ẩn của nó
là: “Những việc tiếc hận xưa nay không thể truy tìm được nguyên nhân”. Ta nên
lưu ý các nhà Nho không oán người, không trách trời, nên không thể coi đây là lời
chỉ trích oán hận trời.
“Phong vận” là từ nói tắt của “lưu phong dư vận”
nghĩa là gió thổi nước trôi, biểu hiện sự hài hòa rất mực, biểu hiện của tài
tình, của bất diệt. Những kẻ “phong vận” thường có con đường hạnh phúc may mắn
vạch ra phía trước, họ phong lưu tức họ bất diệt. Thế nhưng sao ở ta, ở số kiếp
bao nhiêu người mà ta chứng kiến thì những người ấy thường gặp oan trái kì lạ
khó hỏi trời. Các quy luật đã bị lộn ngược oái oăm đến mức không thể giải
thích. Nghĩa hàm ẩn của câu này là: Những kẻ phong vận tài tình bị oan trái thì
thông cảm được với nhau.
Ta thấy mình
cũng chịu nỗi oan kì lạ như người phong vận đấy (Người thơ phong vận như thơ ấy).
Nguyễn Du đã xếp mình đồng hội đồng
thuyền với những số kiếp tài hoa bạc mệnh. Ông không lí giải được tại sao đời
mình lại gặp nhiều trầm kha oán trái thế: “Tráng niên ngã dực vi tài giả” (Thời
trẻ ta cũng là kè có tài mà). Ý thức được mình như thế, để hôm nay ngậm ngùi
ngơ ngác hỏi vào thinh không. Thế mà sao ta cứ như những người phong vận mắc nỗi
oan lạ lùng? Các câu thơ thúc ép nhau để rồi “thiên nan vấn”. Câu hỏi ấy va đập
vào cái vô hình tạo thành một nỗi đau thấm đến gan ruột.
Hai câu kết:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai nhỏ nước mắt khóc cho Tố
Như chăng?)
Người xưa
cho rằng những kẻ đồng thanh thì tương ứng, đồng khí thì sẽ gặp nhau. Vì thế chỉ
cần Kiều tỏ lòng thành với Đạm Tiên: “Chớ nề u hiển mới là chị em”, thì: “Phút
đâu ngọn gió cuốn cờ đến ngay”. Con người “đồng khí” thường tái sinh và gặp
nhau ở tương lai. Nguyễn Du sống sau
Tiểu Thanh hơn ba trăm năm, ông hiểu và đống nỗi oan kì lạ như Tiểu Thanh nên
ông khóc nàng. Chẳng biết sau khi ta nhắm mắt ai là kẻ đồng oan khóc ta? (Hôm
nay em khóc chị, ngày mai ai khóc em?).
Nguyễn Du quả nhắm mắt không yên khi không biết
tương lai có ai hiểu ông không? Niềm khắc khoải ấy lại là một sự tiên cảm của
thiên tài; ông mong chờ một tấm lòng hô ứng nhưng chỉ mới hai trăm năm trôi qua
Nguyễn Du đã được đánh giá là đại
thi hào dân tộc:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những
ngày
(Tố
Hữu - Kính gửi cụ Nguyễn Du)
Con cháu của
Nguyễn đã khóc Nguyễn thực lòng. Đã “khấp” tức là nhỏ nước mắt chân thành chứ
không phải “khốc” tức là khóc to lên, nhiều lúc không cần nước mắt.
Đăng nhận xét